5 phiên tòa xét xử vụ tranh chấp 1,4m2 đất chưa ngã ngũ?

Mặc dù đã bị Tòa cấp cao Đà Nẵng tuyên hủy 2 lần nhưng Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk vẫn buộc bà Hà tháo dỡ diện tích đất của mình để trả cho ông Trện là một Quyết định không có căn cứ.

Theo đơn trình bày của bà Trần Thị Thu Hà (địa chỉ Số nhà 12 đường Nơ Trang Gưh, Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk), bà Hà vừa là bị đơn cũng là người bị hại trong vụ án tranh chấp 1,44 m2 đất ở giữa ông Nguyễn Văn Trện cùng vợ Nguyễn Thị Thu (trú tại số nhà 331 đường Quang Trung, phường Tân Tiến, Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk).

Qua trao đổi bà Hà cho biết: Gia đình bà có lô đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 776094 – CH 02771 do Chủ tịch UBND TP. Buôn Ma Thuột cấp ngày 10/06/2010. Tài sản trên đất có ngôi nhà kiên cố, với diện tích sử dụng 46,3m2, xây xong năm 2010.

Căn cứ vào giấy CNQSD đất thì diện tích bà được quyền sở hữu 72,8m2. Trong đó trừ lại phần diện tích thuộc quy hoạch đường Nơ Trang Gưh là 24,9m2. Như vậy bà được sử dụng diện tích là 72,8m2 – 24,9m2. So sánh biên bản nghiệm thu, thanh lý hợp đồng ngày 16/8/2012 giữa Tòa án nhân dân TP. Buôn Ma Thuột cùng cơ quan chức năng tại hiện trường thì số diện tích đất của bà Hà còn thiếu là: 47,9m2 – 46,3m2 = 1,6m2.

5-phien-toa-xet-xu-vu-tranh-chap-14m2-dat-chua-nga-ngu

Phần đất dôi ra tại con hẻm, nằm trong diện tích đất bà Hà, Tòa vẫn “vô tư” tuyên trả cho ông Trện.

Về phía nguyên đơn ông Nguyễn Văn Trện và bà Nguyễn Thị Thu, diện tích đất theo giấy CNQSD đất là 218,6m2. Trong khi đo đạc thực tế theo biên bản nghiệm thu là 228,9m2. Như vậy diện tích đất của ông Trện, bà Thu dư ra 10,3m2. Quá trình xét xử của các cấp Tòa án trong thời gian từ năm 2012 đến 2017 với những bản án số 95/2012/DSST ngày 27/08/2012 “Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân TP. Buôn Ma Thuột do thẩm phán Nguyễn Thị Tuyên làm chủ tọa. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Trện buộc bà Trần Thị Thu Hà trả lại 1,44m2 đất (lần thứ nhất).

Lần thứ 2: – Tại bản án số 143/2012/DSPT ngày 03/12/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk do ông Nguyễn Đình Triết chủ tọa. Tuyên xử: Y án sơ thẩm.

Lần thứ 3: Quyết định giám đốc thẩm số 35/2016/DSGĐT ngày 22/08/2016 của Tòa án cấp cao tại Đà Nẵng. Quyết định hủy toàn bộ 2 bản án như đã trình bày trên. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Lần thứ 4: Tại bản án số 54/2017/DSST. Tòa án TP. Buôn Ma Thuột do thẩm phán Nguyễn Thị My My chủ tọa Quyết định. Tuyên xử: Buộc bà Trần Thị Thu Hà phải tháo dỡ phần hè xây lồi có diện tích 1,224m2 (0,48m x 2,55m) trên đường vào nhà ông Trện.

Khi đọc và nghiên cứu bản án của Tòa sơ thẩm tuyên, bà Hà vô cùng thất vọng. Bởi vụ án đã qua 4 lần xét xử, chứng cứ rõ ràng mà tòa vẫn tuyên bà Hà phải trả diện tích dôi ra so với diện tích đã thỏa thuận bằng miệng, theo như nhận định của tòa các cấp. Cả hai bản án của tòa sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã bị Tòa cấp cao Đà Nẵng tuyên hủy. Nhưng sau khi xét xử lại Tòa sơ thẩm TP. Buôn Ma Thuột vẫn buộc bà Hà tháo dỡ phần xây lồi ra nằm trong diện tích đất của nhà bà Hà để trả cho ông Trện là một Quyết định không có căn cứ.

Ấy thế mà lần thứ 5: Tại bản án số 138/2017/DS-PT ngày 23/11/2017, theo nhận định của Tòa, qua xem xét tại biên bản “Trích đo địa chính thửa đất ngày 16/8/2012 và biên bản kiểm tra thực địa ngày 17/11/2017” thì phần diện tích đất đang tranh chấp là 1,33m2. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tuyên buộc bà Hà tháo dỡ trả lại cho ông Trện diện tích đất 1,22m2, nhưng ông Trện, bà Thu không kháng cáo. Tuy nhiên trong trích đo diện tích tại thực địa cho phép sai số có sự chênh lệch về số liệu. Cho nên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không làm bất lợi cho người kháng cáo nên không đặt ra xem xét.

Từ những phân tích trên. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy kháng cáo của bà Hà không có căn cứ để chấp nhận, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 54/2017/DS-ST ngày 14/7/2017 của Tòa án Nhân dân TP. Buôn Ma Thuột.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Trện. Buộc bà Trần Thị Thu Hà phải tháo dỡ phần hè xây lồi có diện tích 1,22m2 (0,48m x 2,55m) ở số 12, đường Nơ Trang Gưh, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Vị trí: Phía Đông giáp đường Nơ Trang Gưh rộng 0,48m (trong đó có cả chân tường bê tông rộng 10cm) phía Tây giáp đất ông Trện rộng 0,48m (trong đó có cả chân tường bê tông rộng 10cm), phía Nam giáp đường hẻm (có bức tường cao 1,24m dài 1,25m + bức tường cao 0,7m, dài 1,3m) phía Bắc giáp tường nhà bà Hà dài 2,55m. Phần đất mà Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên: Y án Tòa sơ thẩm.

Trước đó ngày 10/9/2017 Viện Kiểm sát Nhân dân TP. Buôn Ma Thuột đã có kháng nghị số 1272/QĐ/KNPT-DS. Xét bản án dân sự sơ thẩm 95/2012/DS-ST ngày 27/8/2012 của Tòa án Nhân dân TP. Buôn Ma Thuột, giải quyết vụ kiện “Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn Nguyễn Văn Trện; bị đơn Trần Thị Thu Hà. Bản án dân sự nêu trên đã Quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Trện “Buộc bà Hà có trách nhiệm trả lại cho ông Nguyễn Văn Trện, bà Nguyễn Thị Thu tổng diện tích đất là 1,44m2″, căn cứ giấy CNQSD đất số AC 461481 của UBND TP. Buôn Ma Thuột cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Trện và Nguyễn Thị Thu, diện tích là 218,6m2 và giấy CNQSD đất số: BB 776094 của UBND Tp. Buôn Ma Thuột cấp cho bà Trần Thị Thu Hà diện tích là 72,8m2.

Biên bản đo đạc thực tế của Trung tâm kỹ thuật địa chính ngày 16/8/2012, thì diện tích đất thực tế của ông Nguyễn Văn Trện là 228,9m2 và diện tích đất thực tế của bà Trần Thị Thu Hà là 46,3m2. Như vậy diện tích đất thực tế của ông Nguyễn Văn Trện lớn hơn so với diện tích được cấp, còn diện tích thực tế của bà Trần Thị Thu Hà nhỏ hơn so với diện tích được cấp, cho nên chưa đủ căn cứ xác định đất của ông Trện bị bà Hà lấn chiếm, cũng như chưa xác định được bà Hà có lấn đất của ai hay không, nhưng cấp sơ thẩm không tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự để làm rõ, mà bản án tuyên buộc bà Hà phải trả lại đất cho ông Trện là không hợp lý.

Qua trao đổi với chúng tôi, bà Hà khẳng định: “Phần đất bà xây ở phía sau và phần đất chừa lại bên hông lối đi của ông Trện đều là đất của bà. Việc Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên buộc bà phải tháo dỡ trụ móc bà xây trước đây là không có căn cứ. Vì đất đó là đất của bà, bà muốn làm gì thì làm. Trước khi bà dỡ căn nhà cũ để xây lại nhà mới, bà chỉ cho thợ đào đúng với móng nhà cũ đã xây. Nhưng bà Thu muốn mở rộng thêm con hẻm vào nhà mình nên ông Trện mới có ý đồ lấn chiếm phần đất phía sau nhà tôi để buộc tôi phải thương lượng thu hẹp phần chiều ngang nhà lại, trả cho tôi.

Nay Tòa đã tuyên buộc tôi phải đập trụ móc để trả đất cho ông Trện phía trước thì diện tích đất đường hẻm phía sau của gia đình tôi vẫn còn dư đất. Tòa tuyên buộc tôi phải tháo dỡ phần phía trước giao cho ông Trện thì tôi sẽ xây phần đất còn thừa phía sau lại”.

“Trong vụ án này tôi thấy Tòa 2 cấp vẫn bảo vệ ông Trện, mặc dù biết rằng việc ông Trện kiện tôi đòi đất là không có căn cứ, chứng cứ nào. Việc tôi và ông Trện trao đổi bằng miệng là 2 bên đổi đất cho nhau thì đất của ông Trện có bao nhiêu thì Tòa buộc tôi phải trả cho ông Trện bấy nhiêu. Diện tích đất còn lại phải là của tôi. Ấy thế mà Tòa 2 cấp vẫn “chống lưng” cho ông Trện là không khách quan, có tiêu cực”, bà Hà bức xúc nói.

Bởi vậy, việc đánh giá chứng cứ vụ án của Tòa hai cấp là chưa khách quan, toàn diện, chính xác, vi phạm Điều 96/BLTTDS theo như Quyết định kháng nghị số 1272/QĐ/KNPT-DS của Viện Kiểm sát Nhân dân TP. Buôn Ma Thuột, ngày 10/9/2012 là có căn cứ.

Kính đề nghị Tòa cấp cao Đà Nẵng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Đà Nẵng và Tòa án tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao xem xét lại 2 bản án nói trên.